Pages

Subscribe:

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

Sự tích bông hoa cúc trắng

Ngày xửa ngày xưa, ở một xóm vắng có nhà nọ chỉ có hai mẹ con nương tựa nhau mà sống. Còn người cha thì đã mất từ rất sớm, để lại hai mẹ con đơn côi trong túp lều nhỏ. Họ phải làm việc vô cùng vất vả thì mới kiếm vừa đủ ăn.


Vào một ngày kia, người mẹ vì làm việc quá nhiều nên bị ốm. Bà liền gọi con gái tới và bảo rằng:

– Con ơi! Giờ con hãy đi tìm thầy thuốc tới đây giúp mẹ.
Cô bé vâng lời mẹ, vội vàng ra đi, cô cứ vừa đi vừa lo lắng cho mẹ của mình. Trên đường, cô vô tình gặp một cụ già tóc bạc, râu trắng. Cụ già thấy cô bé vội vã như vậy thì hỏi thăm:
– Này cô bé, cháu đi đâu sao mà lại vội thế?

Dù đương vội nhưng cô bé cũng dừng lại trả lời cụ già:

– Thưa cụ, giờ cháu đang đi mời thầy thuốc ạ, mẹ của cháu đang bị bệnh nặng.

Nghe vậy cụ già lại bảo cô bé:

– Ta chính là thầy thuốc. Vậy giờ cháu dẫn ta tới nhà cháu đi, ta sẽ khám bệnh giúp mẹ cháu.

Cô bé hết sức vui mừng, dẫn đường cho cụ già về nhà mình. Đến nơi, cụ già liền khám bệnh cho mẹ của cô. Sau đó thì cụ già mới bảo cô bé là:

– Bệnh của mẹ cháu đã nặng lắm rồi. Nhưng ta sẽ cố gắng hết sức để có thể chữa khỏi bệnh cho mẹ cháu. Giờ thì cháu phải đi ngay ra chỗ gốc đa ở đầu rừng, cháu sẽ thấy gần đó có bông hoa màu trắng, sau đó cháu hãy đem bông hoa về đây.

Ngoài trời bây giờ đang rất là lạnh. Mà cô bé của chúng ta chỉ mặc có một chiếc áo rất mỏng ở trên người. Nhưng thương mẹ, cô cứ đi mãi, đi mãi, cho đến khi đôi chân đã mỏi nhừ thì cô mới tới được chỗ gốc đa nơi đầu rừng như lời chỉ của cụ già kia.

Khi cô nhìn ngó xung quanh thì thấy ngay ở bụi cây gần đó có một bông hoa màu trắng rất là đẹp. Không chần chừ lâu, cô bé hái bông hoa, nâng niu nó trên tay như là vật quý. Đột nhiên cô bé lại nghe thấy có tiếng nói của cụ già đang văng vẳng ở bên tai mình:

– Bông hoa có bao nhiêu cánh nghĩa là mẹ cháu sống được bấy nhiêu ngày.

Cô bé lập tức nhìn xuống bông hoa và cẩn thận đếm từng cánh một:

– Một cánh, hai cánh, ba cánh, bốn cánh… hai mươi cánh. Trời ơi! Nghĩa là mẹ mình chỉ còn có thể sống được hai mươi ngày nữa sao?

Sau một hồi suy nghĩ thì cô bé liền ngồi xuống, nhẹ nhàng xé từng cánh hoa ra thành rất nhiều sợi nhỏ khác. Và mỗi sợi nhỏ ấy lại trở thành một cánh hoa vừa dài vừa mượt. Từ bông hoa chỉ có hai mươi cánh giờ đã trở thành bông hoa có vô vàn là cánh hoa.

Sau đó cô bé mới đem theo bông hoa chạy nhanh về nhà. Về đến nơi cô đã thấy cụ già kia đứng ngay cửa để chào đón mình. Cụ già tươi cười mà nói với cô rằng:

– Mẹ của cháu khỏi bệnh rồi đấy. Đó chính là phần thưởng cho lòng hiếu thảo, ngoan ngoãn của cháu!

Kể từ đó về sau, hằng năm cứ vào mùa thu là những bông hoa có nhiều cánh lại đua nhau nở rộ, vô cùng xinh đẹp. Và người ta đặt tên cho chúng là bông cúc trắng, nó là biểu tượng cho lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.

Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016

Bánh chưng bánh dày - Truyện cổ tích Việt Nam

Ngày xửa ngày xưa, đời Hùng Vương thứ 6 có tất cả 18 người con. Ai cũng hay văn, giỏi võ nhưng không thích bị lao động chân tay.

Chỉ có 1 người con duy nhất của Hùng Vương là Lang Liêu lại ngược lại, thích nghề trồng trọt, bản tính lương thiện, hiền hòa. Chàng đã đưa vợ và con về quê vỡ nương, trồng trọt để sinh sống.

Cuối năm nọ, vua Hùng đã triệu tập đủ 18 người con và bảo: “Đến ngày hội đầu năm, ai mà đem được đến của ngon vật lạ để tế Trời Đất thì ta sẽ nhường ngôi cho người đó”.


Nghe lời cha, các hoàng tử đã đi khắp bốn phương để tìm cho ra thứ của ngon vật lạ như lời người cha. Chỉ có duy nhất Lang Liêu là lo lắng, băn khoăn không biết lựa chọn vật gì để dâng lên vua cha.
Một ngày nọ, khi đang ngủ bỗng nhiên Lang Liêu nằm mơ thấy có 1 vị thần đến mách bảo rằng: “ Này con, trên đời này không có thứ gì quý hơn hạt gạo bởi gạo là thực phẩm nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp để làm hình bánh tròn hoặc bánh vuông để tượng trưng cho Trời đất. Sau đó con hãy lấy lá để bọc ngoài và cho nhân vào bên trong, lá sẽ tượng trưng cho Cha – Mẹ là đấng sinh thành.

Tỉnh giấc Lang iêu vô cùng vui mưng, đã chuẩn bị làm theo lời Thần dặn. Chàng đã chọn loại nếp tốt nhất để làm bánh hình vuông tượng trưng cho Đất rồi cho vào luộc chín và gọi đó là bánh Chưng. Bành giã xôi để làm bánh hình tròn tượng trưng cho Trời và gọi đó là bánh Dày.

Đến ngày hội, các hoàng tử của vua cha mang đến không biết bao của ngon vật lạ. So với những thứ đó thì lễ vật mà Lang Liêu chuẩn bị có vẻ quá đơn giản. Thế nhưng sau khi nghe Lang Liêu giải thích về nguồn gốc, ý nghĩa sâu xa của 2 loại bánh đó thì nhà vua đã quyết định lựa chọn để tế trời đất. Sau đó vua cha chia bánh cho các hoàng tử cùng quần thần nếm thử, ai cũng tấm tắc khen ngon. Đây đúng là thứ quý nhất trong ngày hội đầu năm.

Và như đã hứa, vua Hùng quyết định nhường ngôi cho Lang Liêu. Kể từ đó trở đi mỗi khi đến dịp Tết Nguyên Đán thì đân chúng lại chuẩn bị làm bánh Chưng và bánh Dày để tế Trời – Đất.

Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016

Truyện cổ tích: Công chúa ngủ trong rừng

Đọc truyện cổ tích Công chúa ngủ trong rừng cho bé nghe giúp bé có được sự thư giãn và đi vào giấc ngủ nhanh hơn nhé. Các mẹ hãy phân tích cho bé ý nghĩa câu chuyện này.


Ngày xửa ngày xưa, tại một đất nước có nhà vua và hoàng hậu mãi không có con và họ mong ước có một đứa con để chăm sóc. Bỗng nhiên một tối có con ếch nói:

– Mong ước của bà sẽ trở thành hiện thực. Qua năm nay người sẽ sinh một cô con gái.

Đúng như vậy, hoàng hậu đã sinh hạ một bé gái vô cùng xinh đẹp và dễ thương. Nhà vua mở tiệc tổ chức để chúc mừng, ngài còn mời cả các bà mụ đến để chăm sóc tốt nhất cho cô công chúa.

Nhưng truyện Công chúa ngủ trong rừng xảy ra khi vua chỉ mời có 12 bà mụ và thiếu mất 1 người. Xong bữa tiệc tất cả các bà mụ đều chúc công chúa. Mụ thứ nhất chúc cho công chúa đức hạnh, mụ thứ hai chúc dung nhan, mụ thứ ba là phú phú, giàu sang. Lần lượt tất cả các mụ đều chúc cho công chúa những lời tốt đẹp nhất. Bà mụ 11 vừa dứt lời thì bà mụ thứ 13 xuất hiện, ba tiến thẳng về phía công chúa và hét lên:

– Đến khi 15 tuổi công chúa sẽ bị mũi quay đâm vào tay và lăn ra chết ngay tức khắc

Tất cả mọi người bàng hoàng và kinh hãi. Cũng rất may vẫn còn mụ thứ 12, mụ không thể hóa giải lời nguyền này nhưng cũng có thể làm nó giảm nhẹ hơn. Mụ nói:

– Công chúa sẽ không chết mà ngủ một giấc dài trăm năm.

Đúng như lời chúc của các mụ công chúa thông minh, xinh đẹp, tài giỏi, dịu dàng và nết na. Ai gặp cũng phải yêu mến. Truyện Công chúa ngủ trong rừng được lan truyền khi cô bước vào tuổi mới lớn.
Đến khi 15 tuổi nhà vua và hoàng hậu đều phải đi vắng. Công chúa chạy đi chơi lang thang khắp nơi. Nàng gặp một chiếc cầu thang hình trôn ốc. Gặp một chiếc cửa nhỏ nàng mở ra và có một bà lão đang ngồi kéo sợi rất chăm chỉ. Nàng hỏi bà lão.

– Bà đang làm gì vậy ạ?

– Bà đang kéo sợi.

– Cái gì mà cứ nhảy lên nhảy xuống nhanh thế kia vậy bà?

Nàng với sờ vào đồ kéo sợi ngay lập tức lời nguyền của mụ thứ 13 phát huy tác dụng. Mũi kim đã đâm vào tay nàng ngủ ngay lập tức. Cả cung điện chìm vào giấc ngủ triền miên không loại trừ các sinh vật nhỏ bé.

Những bụi hồng gai mọc xung quanh lâu đài ngày càng nhiều. Rồi trong vùng ấy lan truyền truyện công chúa ngủ trong rừng. Mọi người thường gọi cô là công chúa Hồng Hoa. Sau khi nghe chuyện có vị hoàng tử muốn tìm đường chui vào bên trong những bụi hồng gai làm họ bị nghẽn và không thoát ra được.

Trải qua thời gian dài, có một chàng hoàng tử đã nghe tiếng dân nói có bụi Hồng gai khiến bao người bỏ mạng. Công chúa vẫn rơi vào giấc ngủ triền miên. Chàng hoàng tử này nói:

– Con không sợ con muốn đi cứu nàng Công chúa ngủ trong rừng xinh đẹp ấy.

Thấm thoát đã nhiều năm, công chúa có cơ hội tỉnh dậy sau giấc ngủ dài. Vị hoàng tử này tiến đến đó không gian u ám biến mất. Chàng đi tới đâu bụi hồng gai kéo kín tới đó. Vào dân chàng thấy ngựa, chó, những chú chim ngủ say, con ruồi cũng im lặng. Mọi cảnh vật đều có vẻ trầm tĩnh và quá im lặng.

Chàng đến một căn phòng mà công chúa đang ngủ dưới chiếc khung cửi. Chàng ngắm công chúa một hồi lâu và trao một nụ hôn. Nàng chợt tỉnh giấc và nhìn chàng với ánh mắt trìu mến. Chàng nắm tay công chúa xuống dưới lầu. Khi đó, nhà vua, hoàng hậu để đã bừng tỉnh. Mọi vật đều sống động trở lại. Cây xanh tốt, chim hót líu lo. Từ đó họ có một lễ cưới tuyệt vời và sống bên nhau hạnh phúc. 

Câu truyện cổ tích Công chúa ngủ trong rừng kết thúc có hậu khiến độc giả hài lòng.

Chủ Nhật, 13 tháng 11, 2016

Sự tích đầm mực - Đọc truyện cổ tích

Sự tích đầm mực là truyện cổ tích nói về lý do sự ra đời của đầm mực. Câu chuyện giúp bạn hiểu được tấm lòng và sự tốt bụng của con người với con người. Sự hy sinh của hai anh em thuồng luồng.


Xưa vào triều Trần, xã Quang Liệt có cụ đồ tên Chu An. Cụ có kiến thức uyên bác và cao siêu. Tiếng tăm vang khắp mọi nơi. Nhà vua nghe thấy thế liền mời cụ vào kinh trông nom trường Quốc tử và dạy dỗ thái tử.

Cụ đành xa vợ con để lên kinh nhậm chức. Một năm sau người ta thấy cụ quay lại quê hương vì không chịu nổi thói cường quyền, dối vua hại nước.

Về quê cụ tiếp tục dạy học, học trò khắp bốn phương làm cơm nắm xin đến học cụ. Mọi người còn phải dựng lán ở bên ngoài mới đủ chỗ học.

Học trò của cụ có hai người con của vua Tề. Hàng ngày họ đều đến học, cử chỉ của họ chẳng khác nào người trần. Ngày nọ đang chấm bài thi anh trưởng tràng chạy tới và nói anh nhìn thấy hai người từ dưới mặt nước đi lên. Đúng là hai anh em họ. Con theo họ về tận đây.

Cụ đồ nhẹ nhàng vuốt rau và nói:

- Con ạ. Ta mặc kệ họ thôi, quỷ thần mà chuộng đạo thánh hiền thì càng tốt.

Vào đúng năm ấy hạn hán kéo dài khiến mùa màng của người dân mất hết. Mọi cây nối đều héo rũ không còn sức sống. Cụ đồ gặp riêng hai chàng Gàn và nói:

- Mong hai con thương dân làng.

Hai anh em vẫn tỏ ra như như chẳng hiểu gì cụ nói:

- Ta biết hết rồi. Giờ chỉ các con mới cứu được dân làng.

Lúc này hai anh em mới nhìn nhau và đáp:

- Chúng con biết, nhưng giờ các con sống đề phong bế, con không thể kiếm nước ở đâu được.

Cụ đồ khẩn thiết mà than:

- Các con cố tìm xem ở đâu có. Không cứu được nhiều thì ít cũng được vậy.

Một lúc sau hai chàng nhìn vào nghiên mực đành lấy chút nước trong đó làm mưa. 3 người bê nghiên mực ra bờ sông một người cầm bút vẩy tạo thành mưa. Xong việc họ vứt luôn đồ xuống nước và vái lạy cụ đồ rồi biến mất.

Quả nhiên, đêm hôm ấy trời đổ mưa. Mọi người đều thấy lạ khi chỉ riêng tham Đàm là nước tràn ngập và có màu đen. Mưa xuống cứu được vô vàn ruộng lúa, lương thực làm người dân vui mừng. Tuy nhiên, ở thiên đình ai cũng cảm thấy lạ lùng. Ngọc Hoàng thấy thế bèn sai người đi điều tra thủ phạm. Hai anh em họ đã bị bắt và bị thần sét dùng búa chặt đầu. Khi chết hai người biến thành con thuồng luồng đầu và xác không liền nhau trôi dạt vào gầm cầu Bưu.

Cụ đồ biết tin liền thương xót. Cụ cùng với học trò đem chôn cất hai anh em họ đàng hoàng như hai người. Cả bờ sông hôm ấy đều nổi lên màu áo trắng tinh. Chiếc nghiên mực trôi về phía làng Quỳnh Đô khiến nước đổi màu đen nên người ta gọi là sự tích đầm mực. Còn cây bút trôi về làng Tó (làng Tả Thanh Oai bây giờ) mới có nhiều người đỗ đạt.

Còn về ngôi mộ của hai anh em sau này được lập miếu thờ gọi là miếu Gàn.

Thứ Tư, 2 tháng 11, 2016

Sự tích Cây Quất - Đọc truyện cổ tích

Truyện sự tích cây quất gửi gắm vào đó là một hình ảnh người có võ công hơn người dẹp thù trong giặc ngoài. Hơn nữa đây còn là biệt danh anh được người dân thường gọi.


Ngày xưa tại một ngôi làng có ba người Thư, Mộc, Quân chơi với nhau. Mỗi người có một sở thích riêng. Thư thích đọc sách, Mộc thích trồng cây còn Quân mê đánh võ. Quân bị câm điếc từ nhỏ nên sử dụng tay và chân giao tiếp rất linh hoạt.

Quân ham mê võ thuật nên thường nhìn người khác tập và tập theo. Vì vậy bao nhiêu dao lớn nhỏ trong nhà đều không còn cái nào lành. Cha mẹ cậu phải giấu hết dao và chỉ cho cậu tập với cành cây.
Ngày ngày Quân đều luyện tập bất cứ lúc nào và rất hăng say. Rồi cây roi nhỏ không vừa tay cậu tập bằng cách lấy nhiều cây gộp lại, thậm chí cả hổ và chăn đều bị cậu lia cho cái và mất đầu. So với hai người bạn Quân cao lớn và khỏe hơn rất nhiều. Dân chúng thường hay gọi cậu là Quất giỏi. Sự tích cây quất bắt đầu từ đây.

Một năm giặc ngoại xâm tràn vào hòng đánh chiếm nước ta. Chúng đông quân và có tướng tinh có thể liền lại vết thương tức thì. Vua bèn kêu gọi người tài giỏi để dẹp yên bờ cõi. Nghe thế Quất xin phép cha mẹ được ra trận. Thư tặng cậu một cây bút đẹp nhất, Mộc tặng cậu túi gạo ngon nhất.

Nhà vua bèn hỏi Quất Giỏi:

– Nhà người có tự tin giết được tướng giặc bên kia không?

Cậu không nghe thấy vua nói tưởng vua hỏi cầm cái gì cậu bèn giơ cây bút Thư tặng lên. Do đường xa cậu đã làm rớt đầu cây bút lúc nào không biết.

Thấy thế vị quan dẫn cậu liền thưa:

– Anh ta nói sẽ quyết chặt bay đầu tường giặc.

Nhà vua lại hỏi:

– Thế diệt giặc trong bao lâu?

– Cậu không nghe thấy tưởng hỏi cái gì trên vai liền mở túi ra. Vị quan tâu:

– Hết chỗ gạo này thì giặc sẽ hết.

Vua vẫn tiếp tục hỏi thêm:

– Ngươi muốn được thưởng gì nếu dẹp xong giặc?

Cậu tưởng vua hỏi kiếm đâu liền đưa cây roi mây lên. Vị quan thưa bệ hạ là cậu muốn cây chanh ra quả vàng của bệ hạ. Rồi nhà vua đồng ý.

Nói xong Quất Giỏi xin nhà vua chuẩn bị roi sắt có 3 cạnh và một mình đi đánh giặc. Tướng giỏi thấy vậy cười khẩy nghĩ thầm chắc hắn chỉ đi phủi bụi trên da. Quất Giỏi vung roi khiến da thịt tướng địch rách toác nhưng ngay sau đó những vết thương ấy lành lại.

Tức giận hắn bèn lấy đao dài như mái chèo tấn công tới tấp nhưng Quất giỏi tránh được. Anh cũng dùng hết sức mình lấy roi mà quất hắn đỡ được những đến roi thứ ba chưa kịp trở tay, tên tướng giặc lãnh đủ một roi khiến đầu rơi xuống và lăn lông lốc.

Nhà vua nghe cậu chiến thắng liền mừng rỡ làm yến tiệc. Đầu của tên tướng giặc không thể liền lại được như các bộ phận khác,

Giữ lời hứa vua tặng cho Quất Giỏi cây chanh có quả vàng lấp lánh. Quất giỏi liền cảm ơn và về làng.
Khi trở về làng Thư ốm nặng, Mộc thì suốt ngày lo lắng cho cây sắp chết rét. Cậu không chần chừ bèn lôi ngay cây chanh bẻ ra từng cành cắm xuống lòng đất khiến mọi cảnh sắc đều trở nên ấm áp, chim hot líu lo và tuyệt diệu hơn bao giờ hết.

Từ đó trở đi tình bạn của 3 người thân càng thêm thân. Về sau Thi đỗ trạng nguyên. Mộc tạo ra được giống lúa mới nấu cơm dẻo và ngon. Còn Quất cậu vẫn ngày ngày tiêu diệt thú dữ để giúp dân làng yên ổn làm ăn.

Cứ hễ mùa Đông về, chỉ cần thấy cây chanh có quả vàng là nắng lại về. Sau người ta lấy tên của cậu đặt cho loài cây có tên là quất. Truyện sự tích cây quất bắt đầu từ đó mà ra.

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

Truyện cổ tích: Tấm Cám

Nếu bạn chưa được nghe truyện cổ tích Tấm Cám, hãy cùng chúng tôi đọc câu truyện Tấm Cám nhé.

***

Truyện cổ tích Tấm Cám

Ngày xửa ngày xưa, Tấm Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Khi người cha qua đời Tấm sống với dì ghẻ. Bà là mụ dì ghẻ đọc ác bắt Tấm làm như người ở. Còn Cám thì ăn chơi không biết làm gì.

Một hôm, bà sai Tấm và Cám ra đồng mò cua bắt tép. Bà dặn:

– Nếu đứa nào đem giỏ đầy về ta sẽ có thưởng.

Tấm chăm chỉ nên bắt được nhiều hơn Cám. Cô Cám lười biếng mải chơi nên không bắt được con nào. Trên đường đi qua cái ao Cám liền nói với Tấm:

– Chị Tấm ơi chị Tấm. Đầu bị lấm chị tắm ao sâu kẻo về mẹ mắng.

Tấm tin ngay lời cô em bỏ giỏ trên bờ và xuống ao gội đầu. Khi lên đến bờ Cám đã trút hết vào giỏ bỏ về. Tấm ngồi khóc nức nở. Bụt hiện lên hỏi:

– Làm sao con khóc?

Tấm kể truyện tấm cám cho bụt nghe. Bụt nói:

– Nín đi, trong giỏ còn một con cá bống con mang về thả xuống giếng nuôi, mỗi bữa dành ra một ít cơm cho cá ăn. Mỗi lần cho ăn nhớ gọi:

– Bống bống bang bang, bống ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta chớ ăn cơm hẩm cháo hoa nhà người.

Nói xong bụt biến mất. Tấm nghe theo bụt ngày ngày đều cho cá ăn. Bống lớn nhanh như thổi. Thấy Tấm co hành động lạ nên mẹ con Cám sinh nghi. Sáng hôm sau bà dì ghẻ sai tấm đi chăn trâu và dặn dò:

– Đi chăn trâu thì chăn đồng xa chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu.

Tấm nghe lời dắt trâu đi đồng xa chăn mà không hề biết âm mưu của hai mẹ con Cám. Thấy Tấm không có nhà hai mẹ con cám ra giếng gọi y nguyên như Tấm gọi bắt bống lên giết hại.. Tấm ngồi khóc nức nở. Bụt lại hiện lên hỏi:

– Tại sao con khóc?

Tấm kể lại câu chuyện cho bụt nghe, bụt liền nói:

– Con hãy về lấy xương của Bống chia làm 4 lọ chôn dưới 4 chân giường. Để làm gì sau này con sẽ hiểu. Nghe lời bụt dặn Tấm về nhà tìm xương nhưng mãi không thấy. Có một con gà bỗng kêu:

– Cục ta cục tác cho ta nắm thóc ta bới xương cho

Tấm liền chạy vào lấy một nắm thóc cho gà. Gà chạy ngay vào đống tro trong bếp bới ra toàn bộ xương. Tấm lượm sạch số xương đó và làm 4 hũ chôn xuống 4 chân giường.

Một thời gian sau nhà vua mở hội cho phép dân chúng được thoải mái đến vui chơi. Ai cũng nô nức đi, cả Tấm Cám cũng muốn đi chơi nhưng mụ dì ghẻ lại âm mưu chỉ cho Cám đi:

– Con hãy nhặt hết chỗ gạo với chỗ thóc này ra. Xong thì con đi đâu cũng được nhưng ta về chưa xong là bị đánh đòn.

Nói xong hai mẹ con nhà Cám đi chơi để lại Tấm ở nhà một mình nhặt thóc. Tấm nhặt mãi không xong bèn ngồi ôm mặt khóc. Bụt lại hiện lên hỏi:

– Tại sao con khóc?

Tấm nói:

– Thưa. Dì ghẻ bắt con nhặt thóc mới đi chơi nhưng con sợ nhặt xong hội tan mất.

Bụt bèn nói:

Con hãy mang số thóc này ra giữa sân nhà ta sẽ cho chim xuống nhặt giúp con.

Tấm lo lắng nói:

– Nhưng ngộ nhỡ chim ăn hết thóc của con dì về sẽ đánh đòn con.

Bụt đáp con hãy nói:

 Rặt rặt xuông nhặt cho tao

In mất hạt nào thì tao đánh chết

Tấm vừa hết câu, lập tức có một đàn chim sẻ sà xuống nhặt giúp Tấm. Chẳng mấy chốc Tấm công việc đã hoàn thành. Đến lúc có thể đi chơi hội được rồi thì Tấm bỗng dưng lại ngồi khóc. Bụt hiện lên hỏi:

– Vì sao con khóc?

Tấm trút nỗi lòng:

–Dạ, quần áo của con rách rưới thế này làm sao đi chơi hội đây.

Bụt nói ngay:

– Giờ con hãy vào đào 4 chiếc lọ mà con đã chôn. Con sẽ có đủ quần áo đi dự hội.

Tấm liền vâng lời bụt vào đào ngay 4 hũ. Thật ngạc nhiên hũ thứ nhất có áo mớ ba, áo xống lụa và một yếm lụa điều bà một khăn nhiễu đào. Hũ thứ hai là một đôi giày thêu chi tiết rất đẹp. Hũ thứ ba là một con ngựa, hũ cuối cùng là bộ yên cương xinh đẹp.

Tấm vui mừng liền thay ngay quần áo tới kinh thành. Chẳng may trên đường bị rơi mất một chiếc giày không kịp nhặt. Nàng gói lại một chiếc và chen vào biển người.

Sự tích tấm cám càng diễn biến hay khi nhà vua nhặt được chiếc giày của Tấm.

Đoàn nhà vua đi trên đường, hai con voi thấy chiếc giày của Tấm đánh rơi bèn rống lên không chịu đi. Nhà vua sai lính nhặt chiếc giày và ngắm nghía cho rằng đây là chiếc giày đẹp và người đi vừa nó chắc cũng phải có nhan sắc tuyệt trần.

Nhà vua đều ban lệnh cho tất cả mọi người thử giày. Ai ướm thử vừa người đó sẽ được nhà vua lấy làm vợ. Đám hội ngày càng thêm náo nhiệt khi tất cả mọi người ai cũng muốn thử giày. Chiếc giày qúa nhỏ không vừa chân ai trong đó có cả hai mẹ con Cám.

Khi bước ra khỏi lầu Cám nhìn thấy Tấm và mạch mẹ

– Mẹ! Tấm cũng đi thử giày kìa.

Dì ghẻ thấy thế liền bĩu môi:

– Chuông khánh còn chẳng ăn ai nữa là mảnh chĩnh mảnh trai bờ rào.

Mọi người bất ngờ khi Tấm đặt chân lên chiếc giày vừa in. Tấm lấy chiếc còn lại ra hai chiếc giống nhau như đúc. Quân lính hò reo và ngay lập tức cho đoàn tỳ nữ rước nàng vào cung. Hai mẹ con Cám thấy thế vô cùng ghen tỵ.

Đến ngày giỗ cha mẹ con Cám lập mưu giết Tấm. Mụ gì ghẻ sai Tấm trèo lên hái cau để cúng cha. Ở dưới mụ cầm dao chặt gốc. Tấm nói vọng xuống:

– Dì làm gì làm gốc cây rung thế?

Mụ đáp:

– Gì đuổi kiên kẻo nó đốt con.

Cây đổ Tấm ngã xuống ai chết. Mụ lấy quần áo mạc cho Cám rồi đưa vào cung. Mụ nói với vua:

– Con bé hiếu thảo nhưng chẳng may ngã xuống ao chết. Trước lúc lâm trung con bé nói đưa em Cám vào để phục vụ nhà vua thay chị.

Nhà vua vô cùng đau sót nhưng cũng đành phải làm theo tâm nguyện của người đã khuất. Tấm chết hóa thành chim Vàng Anh bay vào hoàng cung. Cám đang giặt đồ con chim cất tiếng hót:

– Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch. Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao.

Cám tái mặt mỗi khi nghe tiếng vàng anh hót. Vua thấy quyến luyến bèn bảo:

– Vàng ảnh vàng anh có phải vợ anh chui vào tay áo.

Chim Vàng anh bèn sà xuống đậu trên tay chui vào tay áo. Thấy thế Cám liền ganh ghét về hỏi ý kiến mẹ. Dì ghẻ bày cách giết chim.

Cám nghe theo mẹ nhân lúc vua đi vắng một thịt chim và chôn lông ở góc vườn. Lông vàng anh hòa thành hai cây đào. Vua lại rất quý đào, ngày ngày ra nằm mặc võng.

Cám lại chạy về mach mẹ. Bà dì ghẻ bảo Cám chặt cây làm khung cửi hàng ngày dệt áo cho bệ hạ.

Nhưng khung cửi ngày nào cũng kêu:

Lấy tranh chồng chị

Chị khoét mắt ra.

Cám lại sợ hãi về nhà mách mẹ. Mẹ cám bày cách đốt khung cửi vứt tro đi thật xa. Về cung Cám làm theo lời mẹ dặn đem tro đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. 

Chính chỗ đó mọc lên một cây thị tươi tốt, cành lá xum xuê. Một hôm bà cụ đi ngang qua ngồi nghỉ thấy thị thơm bà nói:

Thị ơi thị rụng bị bà bà để bà ngửi chứ bà không ăn.

Bà lão vừa nói xong thị rụng trúng bị bà. Bà đem về ngửi, ngắm nghía. Hàng ngày ba đi làm về thấy ở nhà dọn sẵn cơm nước, nhà cửa sạch sẽ bèn lấy làm lạ. Một hôm bà rình thì thấy trong nhà xuất hiện một cô Tấm vô cùng xinh đẹp. Từ đó hai bà cháu ở với nhau.

Thời gian sau đó nưa đi tuần qua thấy ai têm trầu giống vợ mình nên đã xem thử. Nhận ra ngày là Tấm vua rất vui mừng và đón vợ về hoàng cung. Tấm cám gặp lại nhau sau một thời gian ấy, cảm thấy Tấm xinh hơn, da trắng nên hỏi:

– Chị Tấm ơi, chị làm gì mà da chị trắng thế ?

Tấm trả lời:

– Chị tắm bằng nước sôi đó em.

Cám dùng nước sôi tắm thật là chết. Bà mẹ dì ghẻ nghe tin con gái mình chết cũng vì đau buồn quá mà qua đời. Tấm và nhà vua sống hạnh phúc bên nhau. 

Đọc truyện cổ tích tấm cám giúp bạn thấy được sự độc ác của mụ dì ghẻ và xót thương cho số phận nàng Tấm. Cuối cùng nàng cũng tìm được bến bờ hạnh phúc.

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2016

Vì sao người ta đốt pháo - Đọc truyện cổ tích

Vì sao người ta đốt pháo 

Ngày xưa, trong số các hung thần gây tai hại cho người Việt, có một thần tên là Na-Á. Vị thần này dữ tợn, lại có thêm một bà vợ dữ dằn không kém chồng. Hai ông bà Na-Á thường ở lẩn quẩn trong bóng tối, chẳng sợ điều gì, ngoại trừ sợ ánh sáng và sự ồn ào. Cuối năm và đầu Xuân, khi các vị thần tốt phò trợ dân gian phải về trời chầu Ngọc Hoàng, 2 ông bà hung thần Na-Á hay tác oai tác quái. 


Ngày Tết, để trừ tai hoạ do 2 ông bà Na-Á gây ra, người ta đã bày ra chuyện đốt pháo ầm ỹ, ồn ào và chói sáng. Dân chúng cũng thắp nhiều đèn đuốc trong nhà và ngoài ngõ, để đuổi 2 hung thần này. Người ta tin rằng tiếng pháo nổ và mùi thuốc pháo có thể xua đuổi được 2 vợ chồng hung dữ đó, để họ khỏi đến gieo chuyện chẳng lành ngày đầu năm.

Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2016

Chú thỏ tinh khôn - Đọc truyện cổ tích

Chú thỏ tinh khôn


Từ ngày xửa ngày xưa đồng bào người Việt gốc Khơ Me ở đồng bằng sông Cửu Long vẫn thường kể chuyện về một chú thỏ tinh khôn. Chuyện của chú nhiều và dài lắm, vì trí khôn của chú lớn và chiến công của chú kể hết năm này qua năm khác không thể hết được.

Một hôm thỏ đang nằm ngủ dưới một gốc cây sung. Bỗng một quả sung chín rụng rơi đánh bốp một cái giữa đầu thỏ. Vốn nhát, thỏ giật bắn mình chồm dậy và chạy. Chạy như gió cuốn, chạy như bay. Hổ thấy thỏ chạy thì cản đường hỏi tại sao thỏ chạy. Thỏ trợn mắt nói:

- Không chạy thì chết mất ngáp. Đất đang sụt dưới chân ầm ầm kia kìa... Chạy đi thôi...

Hổ nghe hoảng hồn, cũng cắm đầu chạy đứt hơi đuổi theo thỏ. Nhưng hổ làm sao mà đuổi kịp.

Thỏ chạy trước còn hổ thì vừa chạy vừa thở phì phò như kéo bễ. Thần Gió Giêvata cười phì bảo:

- Hổ ơi sao mày to xác thế mà để thằng thỏ nhãi ranh nó lừa mày. Đất có bao giờ sụt đâu mà cần phải chạy.

Nghe thần gió, hổ tin ngay liền tìm thỏ để trừng phạt cho bõ tức. Nhưng thỏ bình tĩnh hỏi:

- Bác hổ ạ, bác ăn thịt cháu cũng được thôi, nhưng phiền một nỗi là toàn thể loài vật vừa bầu cháu làm vua rồi. Bác từ nay cũng phải coi cháu là vua. Nếu bác không tin bác cứ thử đi với cháu mà xem. Chắc hơn hết bác cứ để cháu ngồi lên lưng, ta đi dạo một vòng, nếu không đúng là các loài sợ oai vua của cháu thì bác cứ việc ăn thịt.

Hổ ngờ ngệch bằng lòng cõng thỏ đi một vòng rừng, đi đến đâu trăm loài đều sợ sệt bỏ chạy. Họ chạy vì hổ mà hổ cứ tưởng họ sợ oai thỏ thật. Lúc ấy thỏ mới ra oai quát hổ rằng:

- Nhà ngươi thấy chưa! Trăm loài trong rừng đều sợ ta. Thế mà nhà ngươi còn dám láo với ta. Lần này thì ta tha, vì nhà ngươi chưa biết oai của ta là vua của núi rừng, lần sau ta sẽ trị tội nghe không!...

Hổ sợ quá đành vâng lời.

Lừa hổ xong, thỏ cũng bỏ trốn luôn, nhưng vì bụng đói, thỏ muốn trở lại bãi cỏ xanh non bên bờ suối. Thỏ đã định phóng mình chạy ra đấy nhưng chợt nhớ lần trước mình đã lừa cá sấu nếu ra cá sấu có thể giết chết mình mất. Thỏ sợ đành gậm cỏ trong rừng vừa già vừa khô. Ăn mãi chán quá, thỏ tự nhủ có thể cá sấu quên chuyện cũ rồi chăng. Ra đến nơi thấy cá sấu bận ngủ không để ý gì đến thỏ, thỏ càng tin là cá sấu đã quên chuyện cũ thật. Ai ngờ cá sấu cũng rất cao tay, lừa thỏ đến gần bèn chẳng nói chẳng rằng há mồm ra đớp gọn, chỉ còn chờ nuốt vào trong bụng nữa là hết đời con thỏ tinh khôn. Thỏ sợ quá, rụt rè hỏi:

- Này bác cá sấu, bác có định ăn thịt cháu thì ăn nhanh lên cứ ngậm mãi làm gì, cháu sợ lắm.

Cá sấu cười mím miệng:

- Hút... hút... hút... tao sẽ làm cho mày sợ chết khiếp... chết khiếp... chết khiếp... trước khi nuốt mày vào bụng... hút... hút... hút...

Thỏ nhận ngay ra rằng muốn giữ mồm, mõm cá sấu dài phải mím chặt nên chỉ cười hút... hút được mà thôi... Thế là thỏ ta cười vang:

- A ha, buồn cười quá... buồn cười quá... cá sấu ngọng nên cứ phải kêu hút... út... làm sao ta sợ được... Muốn ta sợ mày phải cười ha... ha... cơ... chứ thế này thì buồn cười đến đứt ruột mất thôi.

Cá sấu tức quá quát:

- Tao mà ngọng à... thằng thỏ ranh... nghe đây... dỏng tai mà nghe ta cười đây... ha... ha... ha...

Để cười ha ha cá sấu phải ngoác miệng ra, thế là lập tức thỏ nhảy tót ra khỏi mệng cá sấu và quay lại dạy cá sấu rằng:

- Này thằng cá sấu ngu ngốc kia... Nghe đây... Từ nay trong miệng đang ngậm mồi thì chớ có cười ha ha nghe không...

Dứt lời thỏ chạy vào rừng.

Một lần có người muốn thử tài của thỏ, bèn đưa cho thỏ một cái đơn kiện vô cùng tối nghĩa. Đơn viết rằng: "Cách đây ít lâu, có người lấy trộm của tôi một con trâu. Không phải trâu đực cũng không phải trâu cái. Không phải năm ngoái cũng không phải năm nay, người lấy không phải họ hàng, cũng không phải người ngoài".

Thỏ chuyển đơn kiện lên các quan, các quan đều ngơ ngác chẳng thể nào hiểu được lá đơn kiện nói gì, phải nhờ thỏ giảng giải rằng:

- Vụ mất xảy ra vào đêm ba mươi Tết. Vì đêm đó có thể gọi là đêm cuối cùng của năm ngoái, nhưng cũng có thể coi là ngày đầu tiên của năm nay. Còn con trâu bị mất trộm không phải là trâu đực cũng không phải là trâu cái chỉ có thể là trâu thiến. Mà kẻ lấy trộm dứt khoát là thằng rể. Vì chỉ có thằng rể mới không phải là người trong nhưng lại không phải là người ngoài họ.

Nghe thỏ giải thích các quan toà đề phải kính phục. Lúc đó, quan toà đang đau đầu về một vụ kiện không cách nào xử được, vội xin thỏ xử giùm. Vụ kiện đầu đuôi như sau:

Có một người cưới vợ. Anh ta yêu quý vợ đến nỗi suốt ngày chẳng muốn rời nửa bước. Nhưng rồi đến buổi loạn ly anh phải đăng lính, không đi không được. Người vợ tiễn chồng đi hết đường này đến đường khác không nỡ rời tay. Đến mãi gốc cây đa kia, người chồng mới dừng lại tâm sự biết bao nhiêu điều, mãi đến khi trống thúc quân vang dậy, loa thét động trời, người chồng mới đành dứt áo ra đi. Không ngờ ở gốc đa có một con yêu tinh. Nó nghe hết mọi điều tâm sự của hai vợ chồng, lại thấy người vợ xinh đẹp, nó đành nghĩ ra một kế độc. Vài hôm sau nó bèn giả dạng thành người chồng vác gươm, giáo về quê hương nói rằng vua không bắt lính nữa. Vì biết tất cả mọi điều riêng tư của hai người nên con yêu tinh làm cho người vợ cứ yên trí đây là chồng mình thật không một chút nghi ngờ gì.

Người chồng sau một thời gian chinh chiến được hồi hương, anh mừng lắm vội vã về nhà đập cửa gọi vợ. Người vợ mở cửa thì thấy lạ quá, ngoài cửa cũng là chồng mình. Người chồng trong nhà quát hỏi người chồng ngoài cửa rằng:

- Mày ở đâu mà dám giả dạng là tao để nhận xằng vợ tao.

Người chồng mới về uất ức vặn lại:

- Người đàn bà này chính là vợ tao, tao mới cưới được vài ngày thì phải đăng lính. Mày ở đâu đến mà dám nhận xằng vợ tao là vợ mày.

Hai bên cãi nhau chẳng bên nào chịu bên nào, đến người vợ cũng đành chịu, vì hai người giống nhau quá, không thể nào phân biệt được ai là chồng thật ai là chồng giả.

Việc đưa lên quan, quan cũng đành chịu. Vừa may có thỏ ta nổi tiếng quan toà, nên chính quan toà nhờ thỏ xử hộ.

Thỏ bèn hỏi hai người chồng rằng:

- Ai là chồng thật của người đàn bà này?

Cả hai người đều tranh nhau nhận. Thỏ gật gật đầu ra vẻ suy nghĩ rồi bảo cả hai người rằng:

- Nếu là chồng thật thì phải biết trong cái hũ nào của vợ giấu một viêm kim cương. Chị vợ đâu mang hết hũ nhà chị ra đây!

Người vợ ngạc nhiên vì mình có giấu kim cương vào hũ bao giờ đâu, nhưng nghe lệnh của thỏ, chị cũng đành khuân hết các hũ nhà mình ra trước toà. Bấy giờ thỏ mới bảo rằng:

- Ai trong hai người không dùng tay, không được chạm vào hũ mà chui vào trong hũ ngậm được viên kim cương ra thì người đó chính là chồng người đàn bà này.

Nghe lệnh như thế, quỷ ta mừng lắm, bèn rùng mình, chui ngay vào hũ đầu tiên, thỏ ta bèn ra lệnh cho người chồng thật bịt ngay miệng hũ lại, mang vứt xuống sông. Quan toà ngơ ngác, thì thỏ cười mà rằng:

- Phải vứt nó đi thôi, giam nó vào hũ vì nó là yêu tinh. Chỉ yêu tinh mới có thể chui vào trong hũ. Thôi hai vợ chồng anh về nhà đi. Đừng chần chừ ở đây mà quan toà ác hơn cả yêu tinh lại cướp mất vợ của anh, thì thỏ tôi cũng đành bó tay không còn cách gì giúp nữa đâu.

Dứt lời thỏ nhảy tót vào rừng làm cho đám quan toà tức điên lên mà chẳng kịp làm gì cả...

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016

Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non--Đọc Truyện Cổ Tích

Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non


Ngày xưa ở Trung-quốc có Cao Biền rất giỏi nghề địa lý. Những phép hô thần tróc quỷ, ông đều thông thạo. Tiếng đồn vang khắp nơi. Hoàng đế Trung-quốc nghe tiếng liền triệu Biền vào cung ủy thác cho việc kiếm một ngôi đất xây dựng lăng tẩm. Cao Biền vâng lệnh và sau năm năm tìm tòi, đã kiếm được một kiểu đất quý mà theo ông có thể giữ ngôi nhà Đường vững như bàn thạch.

Sau khi công việc hoàn thành, hoàng đế rất khen ngợi, sai ban nhiều vàng bạc cùng phong tước lớn cho Biền. Nhưng Biền vốn biết trong kho tàng của hoàng đế có một ngòi bút thần có phép mầu nhiệm mà chính hoàng đế và cả triều thần không một ai biết cả. Vì thế Biền không nhận vàng, chỉ nói:

– Tâu bệ hạ, hạ thần không muốn lấy vàng bạc của bệ hạ. Chỉ muốn xin một kho trong trăm ngàn kho đồ dùng của bệ hạ bằng cách là để hạ thần tự tay rút trong chùm chìa khóa kho tàng mà quan tổng quản đang nắm giữ, nhằm đúng chìa kho nào thì được phép lấy kho ấy.

Hoàng đế nghe nói hơi ngạc nhiên những vốn trọng tài Biền, tại thấy ý kiến hay hay nên vui lòng để Biền làm chuyện may rủi xem thử thế nào. Quả nhiên kho mà Biền chỉ, đúng là kho đựng toàn bút lông dùng cho triều đình. Khi được sử dụng hàng vạn cây bút, Biền mang đến một hòn đá, lần lượt đem chọc mạnh từng ngòi lông vào đá. Nhưng chẳng có ngòi nào được toàn vẹn. Mỗi lân thấy tòe ngòi, ông lại vứt đi và tiếp tục chọc ngòi khác vào đá. Cứ thế cho đến lúc trong kho sắp vợi cả bút thì bỗng có một quản bút chọc thủng vào đá mà ngòi lông vân còn nguyên vẹn. Biền mừng quá reo lên:

– Ta tìm được ngòi bút thần rồi!

Biền liền cầm bút thần vẽ thử một con rồng lên mặt tường, chừa hai con mắt. Đến khi điểm nhãn, rồng tự nhiên cuộn mình được và tách ra khỏi bức tường. Rồi rồng vụt lên trời, bay biến vào đám mây trước con mắt kinh ngạc của mọi người. Biền lại vẽ thêm nhiều con vật khác và những con ấy đều hoạt động không khác gì những con vật có thực[1].

Sau cùng Cao Biền vẽ một con diều rất lớn, dùng bút thần nhúng mực điểm mắt cho diều. Diều đập cánh bay lên. Lập tức Biền cưỡi lên lưng và diều đưa vút lên trên không. Thế là Biền cưỡi diều vượt qua muôn trùng núi sông sang đến nước Nam. Trên lưng diều, Biền đưa mắt xuống tìm huyệt đất quý. Quả nhiên không bao lâu ông tìm thấy ở gần một con sông, cứ như bây giờ là sông Trà-khúc tỉnh Quảng-ngãi, một huyệt đất phát đế vương. Huyệt đất ấy quý không đâu bằng mà lại chỉ trong một ngàn ngày là phát. Đó là một cái hàm con rồng lấp dưới nước mà chỉ có con mắt của Biền mới khám phá được.

Từ đó, Biền có ý muốn hưởng một cuộc sống sung sướng xa xỉ vào bậc nhất thiên hạ. Nhưng khi nghĩ lại thì hắn rất tiếc là không có con trai mà thân mình lại đã già mất rồi; nếu được làm vua cũng không còn hưởng được mấy nỗi. Biền mới tính sẽ nhường cho rể. Nếu nó làm vua thì ông bố vợ tất cũng được bội phần trọng đãi, mà dòng dõi con gái mình cũng hưởng phúc lâu dài. Những muốn thực hiện công việc "đại sự" này cần phải giữ hết sức bí mật, nếu không sẽ mất đầu như chơi.

Nghĩ vậy, Biền trở về Trung-quốc bảo người con rể đào lấy hài cốt cha y đem sang nước Nam để cải táng. Trong việc này Biền chỉ bàn kín với một người học trò mà thôi. Nhưng người học trò mà Biền tin cậy lại muốn miếng đất quý ấy hoàn toàn thuộc phần mình hưởng, nên khi được lệnh thầy mang hài cốt thì hắn cũng đào luôn hài cốt của cha mình sang Nam.

*

Bấy giờ hàm rồng đang thời kỳ há miệng. Biền bảo học trò lặn xuống ném gói xương vào giữa miệng rồng chờ cho nó ngậm lại hãy lên. Người học trò đem gói xương của cha mình đánh tráo vào, còn gói xương kia thì bỏ ở một bên mép.

Xong việc đó, Cao Biền bảo con rể chọn năm giống lúa, mỗi thứ một thúng mang đến huyệt đất nói trên, sai đào đúng vào chỗ vai rồng thành năm cái huyệt. Mỗi huyệt Biền sai rấm một thúng lúa rồi lấp đất lại thành năm ngôi mộ. Hắn giao cho chàng rể một ngàn nén hương, dặn mỗi ngày thắp một nén, đúng hai năm chín tháng mười ngày thì tự khắc quan gia dưới huyệt nhất tề dậy cả. Dặn đâu đấy, Biền trở về Trung-quốc.

Thời gian trôi qua. Hôm ấy chỉ còn mười ngày nữa là hết hạn công việc mà Cao Biền đã dặn, thì tự nhiên con gái hắn ở nước đẻ luôn một lúc ba né trai, mặt mũi dị kỳ. Vừa mới sinh ra, ba đứa đã biết đi biết nói: một đứa mặt đỏ tay cầm ấn, một đứa mặt màu thiếc, một đứa mặt màu xanh, đều cầm dao sáng quắc. Cà ba nhảy tót lên giường thờ ngồi. đòi đem quân thu phục thiên hạ. Người nhà ai nấy xanh mặt. Chỉ trong một buổi tiếng đồn rầm lên. Mọi người thấy sự lạ đổ tới xem như đám hội. Người rể của Biền sợ quá, bào vợ: – "Mày đẻ ra ma ra quỷ, nếu không sớm trừ đi thì khó lòng sống được với triều đình. Chẳng qua cha mày làm dại, nên mới sinh ra như thế". Thế rồi y chém tất cả.

Trong lúc bối rối, người nhà của y vì lầm nên đốt luôn một lúc hết thảy những nén hương còn lại. Bỗng dưng mặt đât chuyển động. Ở dưới năm ngôi mộ có tiếng rầm rầm mỗi lúc một lớn. Rồi nắp mộ bật tung ra, bao nhiêu quân gia tề dưới đó nhảy lên. Nhưng vì còn non ngày nên sức còn yếu, đứng chưa vững, người nào người ấy đi lại bổ nghiêng bổ ngửa, cuối cùng đều chết sạch.

Lại nói chuyện Cao Biền chờ cho đến tận ngày hẹn mới cưỡi diều bay sang nước Nam. Nhưng lần này diều bị ngược gió nên sang không kịp. Khi diều hạ cánh xuống thì người con rể đã phá hỏng mất công việc của hắn. Hắn bực mình vô hạn. Sau khi căn vặn để hiểu rõ câu chuyện, hắn rút gươm chém chết cả học trò lẫn rể.

Từ đó Cao Biền sinh ra chán đời, chả thiết gì nữa. "Không được ăn thì đạp đổ", nghĩ thế, hắn bèn cưỡi diều đi khắp nước Nam để ếm huyệt và phá tất cả những long mạch của nước này. Ngày chỗ hàm rồng nói trên, hắn dùng phép chém đứt cổ con rồng đó đi. Cũng vì vậy mà ngày nay người ta nói nước sông Trà-khúc đỏ như máu là bởi máu tự cổ con rồng chảy ra đến nay vẫn chưa dứt.

Đến Nghệ-an, Biền thấy trên một hòn núi mà ngày nay còn gọi là núi Đầu-rồng ở sát bờ biển có huyệt đế vương. Hắn bèn làm bùa bằng gang đóng vào đỉnh núi. Từ đó trở đi trên đỉnh núi ấy không một cây cối gì còn mọc được.

Ở Thanh-hóa, Cao Biền cũng thấy có huyệt đất quý. Nhưng hắn thấy con rồng đó què một chân, cho rằng nếu có phát đế vương thì không thể phát to được. Cho nên hắn cho diều đi thẳng không ếm nữa. Cũng vì thế người ta nói mấy đời vua chúa trị vì ở nước Nam đều phát tích ở Thanh-hóa[2].

Khi diều bay qua làng Thiên-mỗ (bây giờ là làng Đại-mỗ, tỉnh Hà-đông) Biền thấy có cái giếng ở vệ sông mà bây giờ là Nhuệ-giang cũng có huyệt đế vương. Hắn bèn cho diều hạ xuống là là sát mặt đất, đoạn thuận tay ném luôn cây bút thần của mình xuống lòng giếng. Người ta nói cây bút ấy sau rồi hóa thành một khúc gỗ cắm chặt xuống đáy giếng.

Không một ai dám động đến nó. Mãi về sau trong làng có một ông thám hoa có tính hiếu kỳ mới tâu vua xin hai con voi về kéo thử khúc gỗ đó lên. Họ tết một chiếc thừng lớn; một đầu buộc vào khúc gỗ còn một đầu buộc vào cổ voi. Nhưng khi voi cất bước thì tự nhiên ở những xóm làng bên cạnh, đất chuyển động ầm ầm, đồng thời nhà cửa phát hỏa tứ tung. Lần ấy ông thám đành bỏ dở công việc vì ông ta sợ con rồng bị đau giãy dụa làm hại đến dân sự. Điều đặc biệt là từ bấy đến nay nước giếng ấy không bao giờ cạn. Mỗi khi nước trong người ta vẫn thấy có bóng khúc gỗ đen đen ở dưới đáy[3].

Để tâng công với hoàng đế, Cao Biền vẽ bản đồ từng kiểu đất một rồi viết thành sách ghi chú rất tinh tường đem dâng lên vua Đường. Đại ý nói tất cả những mạch đất quý nhất của nước Nam, hắn đều đã trấn áp xong. Duy có kiểu đất ở chỗ trung độ (tức bây giờ là Hà-nội) thì hắn đã sai đắp một cái thành gọi là thành Đại-la để chặn long mạch. Lễ trấn áp này Biền làm rất công phu và linh đình. Trên hòn núi ở xa xa về phía Bắc thành Đại-la, hắn cho dựng một cái đàn tràng. Trong thành Đại-la, hắn sai nung một lúc tám vạn cái tháp bằng đất nhỏ. Nung xong, Biền huy động tám ván quân, mỗi tên quân vai vác giáo, mũi giáo xóc một cây tháp, đi từ Đại-la tiến dần lên núi. Vừa đi họ vừa hô mấy tiếng "Thống vận hoàng đế". Đến nơi đặt tháp xuống đỉnh núi rồi tám vạn quân ấy lại rùng rùng kéo về Đại-la. Cũng vì có những việc kỳ dị như thế nên núi ấy từ đó mang tên là núi Bát-vạn[4].

Hoàng đế Trung quốc đọc sách của Cao Biền lại càng khen ngợi hắn. Nhưng việc làm của Biền bị dân chúng nước Nam oán ghét. Họ lập tâm chờ dịp giết hắn cho bõ hờn. Một hôm, Biền cưỡi diều bay vào miền cứ như bây giờ là Ninh-bình. Ở đây người ta đã chuẩn bị cung nỏ chờ khi diều của hắn bay qua là là mặt đất, là cả bao nhiêu người cùng nhất tề phóng tên. Diều bị gãy cánh rơi xuống núi. Biền bị trọng thương, sau đó phải đưa về Trung-quốc. Hòn núi ấy ngày nay còn mang tên là núi Cánh-diều, một trong ba ngọn núi ở gần trị sở Ninh-bình[5].

Ngày nay chúng ta có câu " Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non" là ý nói nóng nẩy vội vàng sẽ thiếu chu đáo, và thế nào cũng thất bại.

Thứ Ba, 16 tháng 8, 2016

Cô Bé Hai Mắt--Đọc Truyện Cổ Tích

Cô bé hai mắt


Ngày xưa, có một bà có ba cô con gái. Con lớn tên là Một Mắt vì cô chỉ có độc một mắt ở giữa trán. Cô thứ hai tên là Hai Mắt vì cô có hai mắt như mọi người khác. Cô út tên là Ba Mắt vì cô có ba mắt, mắt thứ ba cũng ở giữa trán. 

Cô Hai Mắt giống y như những người thường khác nên bị mẹ, chị và em không chịu được. Họ bảo cô: 

- Có hai mắt thì cũng chẳng hơn gì người thường, không phải là họ hàng nhà ta. 

Họ thấy cô đâu là xua đấy, quẳng cho cô quần áo xấu xí, chỉ cho cô thức ăn thừa, tìm đủ cách làm cho cô đau khổ. Có lần cô Hai Mắt ra đồng chăn dê, đói lắm vì chị và em cho ăn ít quá. Cô liền ngồi xuống bờ ruộng khóc lóc thảm thiết, nước mắt tuôn ra như hai dòng suối nhỏ. Đang than vãn, cô ngẩng lên thấy một bà đứng bên mình hỏi: 

- Hai Mắt, sao con lại khóc? 

Hai Mắt trả lời: 

- Con không khóc sao được? Chỉ vì con có hai mắt như người bình thường, mẹ, chị và em không chịu được, xua con từ xó này sang xó khác, quăng cho con quần áo cũ, chỉ cho con ăn cơm thừa canh cặn. Hôm nay ở nhà cho con ăn ít quá, con đói lắm. 

Bà lão bảo: 

- Hai Mắt, con hãy lau mặt đi, bà sẽ bảo con cái này để con không bị đói nữa. Con cứ việc bảo con dê cái của con:

Này dê con, hãy be lên! 
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày! 
Thì lập tức trước mắt con sẽ hiện ra một cái bàn xinh xắn, ở trên bày các thức ăn ngon lành, con tha hồ ăn. Sau khi con ăn no rồi, không cần đến bàn nữa, thì con chỉ việc nói: 

Này dê con, hãy be be! 
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này! 
Thì bàn lập tức sẽ biến mất. 


Sau đó, bà lão đi. Hai Mắt nghĩ bụng: "Mình phải thử ngay xem lời bà dặn có đúng không vì mình đói quá". Cô nói: 

Này dê con, hãy be lên! 
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày! 


Nói chưa dứt lời, thì có một chiếc bàn xinh xắn phủ chiếc khăn nhỏ trắng tinh hiện ra. Trên bàn có đĩa, dao, dĩa, thìa bạc, đầy các thức ăn tuyệt ngon còn nóng, hơi lên nghi ngút như vừa bưng ở dưới bếp lên. Hai Mắt ăn uống ngon lành. No nê rồi, cô lại nói như lời bà lão dặn: 


Này dê con, hãy be be! 
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này! 


Lập tức chiếc bàn xinh xắn và các thứ ở trên biến mất. Hai Mắt nghĩ bụng làm nội trợ kiểu ấy thật thú vị, cô hả hê vui thích lắm. Buổi tối, cô chăn dê về nhà, thấy có chiếc bát sành đựng thức ăn mà chị và em để phần cho, nhưng cô không đụng đến. Ngày hôm sau cô lại chăn dê đi, để nguyên mấy mẩu bánh phần cô. Lần đầu và lần thứ hai, chị và em không để ý, nhưng cứ thế mãi nên họ cũng biết và nói: 


- Con Hai Mắt có điều gì khả nghi. Không lần nào nó đụng đến thức ăn, thế mà mọi khi để cho nó cái gì là nó chén hết sạch cơ mà. Phải tìm cho ra đầu đuôi việc này mời được. 


Khi Hai Mắt ra đi. Một Mắt đến bảo: 

- Để tao đi ra đồng với, xem mày chăn dê có tốt không, mày có chịu đưa dê đi ăn ở nơi tốt cỏ không. 


Nhưng Hai Mắt đã biết được ý định của Một Mắt, cô chăn dê đến đồng cỏ rậm và bảo: 


- Chị Một Mắt ạ, chị em mình ngồi xuống rồi em hát cho chị nghe. 


Một Mắt ngồi xuống, mệt quá vì chưa quen đi đường và vì trời nắng chang chang, còn Hai Mắt cứ hát mãi: 


Một Mắt ơi, chị còn thức không? 
Một Mắt ơi, chị ngủ đấy à? 
Một Mắt nhắm mắt độc nhất của mình lại mà ngủ.

Lúc Hai Mắt thấy Một Mắt đã ngủ say, việc không thể lộ được, cô mới bảo:

Này dê con, hãy be lên! 
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày! 


Cô ngồi vào chiếc bàn xinh xắn, ăn uống no nê rồi lại nói: 


Này dê con, hãy be be! 
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này! 


Tất cả mọi thứ đều biến ngay. Hai Mắt liền đánh thức Một Mắt dậy mà bảo: 


- Chị Một Mắt ạ, chị định đi chăn dê mà lại ngủ à? Trong khi đó dê nó có thể chạy khắp thiên hạ mất. Thôi ta về nhà chị ơi. 


Hai người về nhà. Hai Mắt để nguyên không đụng đến thức ăn. Một Mắt không cho mẹ biết được tại sao em không chịu ăn. Nó xin lỗi mẹ: 


- Con ra đồng ngủ quên đi mất. 


Hôm sau, mẹ bảo Ba Mắt: 


- Lần này, mày đi cùng phải để ý xem con Hai Mắt ra ngoài có ăn gì không, có ai mang gì đến cho nó ăn uống không, vì nhất định là nó phải ăn uống lén lút. 


Ba Mắt đến bảo Hai Mắt: 


- Em muốn đi với chị để xem chị chăn dê có tốt không, chị có đưa dê đi ăn nơi tốt cỏ không? 


Nhưng Hai Mắt đỗán được ý định của Ba Mắt nên cô chăn dê đến đồng cỏ rậm rồi bảo: 


- Em Ba Mắt ạ, ta ngồi đây. Chị sẽ hát cho em nghe. 


Ba Mắt ngồi xuống. Đường xa, trời nắng, nên người mệt nhoài. Hai Mắt lại bắt đầu hát bài hát hôm trước: 

Ba Mắt ơi, thức đấy ư? 


Nhưng sau đáng lẽ phải hát: Ba Mắt ơi, ngủ đấy à? Thì cô lại đãng trí hát: Hai Mắt ơi, ngủ đấy à? 


Rồi cứ hát mãi: 


Ba Mắt ơi, thức đấy ư? 
Hai Mắt ơi, ngủ đấy à? 


Hai con mắt của Ba Mắt nhắm lại ngủ, còn con mắt thứ ba không bị phép của câu thần chú nên không ngủ. Thật ra thì Ba Mắt nhắm cả mắt thứ ba, nhưng nó nhắm giả vờ làm như ngủ, nó nhấp nháy để có thể nhìn rõ được hết mọi việc. Hai Mắt tưởng là Ba Mắt đã ngủ say rồi, liền niệm chú: 


Này dê con, hãy be lên! 
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày! 


Cô ăn uống no nê rồi bảo chiếc bàn nhỏ biến đi: 


Này dê con, hãy be be! 
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này! 


Ba Mắt trông thấy hết. Hai Mắt đến chỗ nó đánh thức dậy bảo: 

- Úi chà. Ba Mắt em ngủ à? Thế mà cũng đòi đi chăn dê? Thôi ta về nhà đi! 


Về đến nhà, Hai Mắt lại không ăn. Ba Mắt liền mách mẹ: 


- Giờ thì con biết tại sao cái con làm bộ ấy nó không ăn rồi. Ở ngoài đồng nó nói "Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!" thì có một chiếc bàn nhỏ bày đầy thức ăn, thức uống tuyệt ngon, ngon hơn ở nhà ta nhiều, hiện ra. Nó ăn uống no nê rồi 
nó bảo: "Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!" thì mọi thứ đều biến mất. Con trông thấy tất cả rõ mồn một. Hai mắt nó niệm thần chú cho con ngủ, nhưng may còn con mắt trên trán vẫn thức. 

Người mẹ đố kỵ liền kêu lên: 


- A, mày lại đòi hơn chúng tao à! Phải cho mày chừa cái thói ấy đi! 


Mụ lấy dao mổ lợn, đâm trúng tim dê, dê khuỵu xuống chết. Hai Mắt thấy vậy, buồn bã đi ra ngồi bờ ruộng khóc lóc thảm thiết. Bà lão bỗng lại hiện ra bên cô mà bảo: 


- Hai Mắt làm sao con khóc? 


Cô đáp: 


- Con không khóc sao được! Mẹ con đã đâm mất con dê mà hàng ngày, khi con niệm câu thần chú của bà, nó dọn thức ăn thật ngon cho con ra bàn. Giờ thì con lại phải chịu đói khát, khổ sở rồi. 


Bà lão bảo: 


- Hai Mắt ạ! Để bà bày cho con một kế hay: con hãy xin chị và em lấy bộ lông của con dê đã bị giết, con đem chôn ở trước cửa rồi sẽ gặp may. 


Nói xong bà lão biến mất. Hai Mắt về nhà bảo chị và em: 


- Chị và em yêu dấu ơi, dê ấy của tôi, cho tôi xin chút đỉnh của nó với. Tôi chẳng dám xin gì ngon lành đâu, chỉ xin bộ lông mà thôi. 


Hai đứa cười ồ lên bảo: 


- Ừ, nếu chỉ xin có thế thì cứ việc mà lấy đi. 


Hai Mắt lấy bộ lông, đến tối theo lời bà lão dặn lặng leo đem chôn trước cửa nhà. 
Sáng hôm sau, khi cả nhà cùng dậy ra cửa thì thấy có một cây kỳ lạ, đẹp lộng lẫy, quả vàng xen giữa lá bạc, trần gian không có gì đẹp bằng. Không ai biết tại sao qua một đêm, cây ở đâu mọc ra. Chỉ có Hai Mắt biết rõ là cây ở lông dê mọc lên vì nó mọc đúng ở nơi 
chôn bộ lông. 


Mẹ liền bảo : 


- Một Mắt, con trèo lên hái quả xuống. 


Một Mắt trèo lên, nhưng cứ định hái một quả táo vàng thì cành lại tuột khỏi tay. Mà lần nào cũng như vậy, khiến cho nó không hái được quả nào, hái mãi cũng không được. 


Mẹ liền bảo: 


- Ba Mắt, con hãy trèo lên, con có ba mắt, ắt là nhìn rõ hơn Một Mắt. 


Một Mắt tụt xuống. Ba Mắt trèo lên. Nhưng Ba Mắt cũng chẳng tài gì hơn, với mãi mà vẫn cứ bị hụt, táo vàng vẫn cứ thụt lại. Sau bà mẹ sốt ruột, đích thân trèo cây, nhưng định hái quả thì lại chỉ nắm không khí, chẳng hơn Một Mắt và Ba Mắt.


Hai Mắt liền bảo: 


- Để tôi lên xem sao, có thể là được. 


Chị và em gái nói: 


- Đồ Hai Mắt thì làm được trò trống gì! 


Nhưng khi Hai Mắt trèo lên, táo vàng không thụt lại, mà tự ý rơi vào tay cô, cô hái được hết quả nọ đến quả kia, mang xuống đấy một tạp dề. Bà mẹ giật lấy. Đáng lẽ, mụ, Một Mắt và Ba Mắt phải đối đãi tử tế hơn với cô Hai Mắt đáng thương, thì họ lại đố kỵ thêm 
vì chỉ có mình cô hái được quả vàng. Họ đối với cô càng thêm cay nghiệt. Một hôm, họ đang đứng bên cây thì có một hiệp sĩ trẻ tuổi đi tới. Cô chị và cô em gọi: 


- Hai Mắt ơi, nhanh lên, trèo xuống đi kẻo chúng tao ngượng cả mặt vì mày. 


Rồi hai người vớ vội một chiếc thùng rỗng để ở ngay gốc cây úp lên cô Hai Mắt đáng thương. Chúng lại nhét tất cả táo vàng mà cô hái được vào trong đó. Hiệp sĩ đến nơi. Ấy là một nhà quí phái rất đẹp. Chàng ngừng lại ngắm cây táo vàng lộng lẫy và bảo cô chị và 
cô em: 


- Cây đẹp này của ai? Cho ta một cánh thì muốn xin gì ta cũng cho. 


Một Mắt và Ba Mắt vội đáp là cây của chúng, chúng sẵn sàng bẻ cho chàng một cành. Hai chị em ra sức bẻ nhưng lần nào cành và quả cũng thụt lại. 


Chàng hiệp sĩ liền bảo: 


- Quái lạ, sao cây của các cô mà các cô lại không hái được?

Chúng vẫn khăng khăng nói là cây của chúng. Trong khi ấy, Hai Mắt ở dưới thùng để mấy quả táo vàng lăn đến chân hiệp sĩ vì nàng bực tức là Một Mắt và Ba Mắt lại không chịu nói thật. Hiệp sĩ thấy táo, ngạc nhiên hỏi táo từ đâu đến. Một Mắt và Ba Mắt đáp chúng còn một người chị em, không dám để cho ra mắt vì cô cũng chỉ có hai mắt như những người thường khác. Nhưng hiệp sĩ đòi xem mặt cô và gọi: 


- Cô Hai Mắt đâu, lại đây nào! 


Hai Mắt bình tĩnh chui ở dưới thùng ra. Hiệp sĩ ngạc nhiên về sắc đẹp của cô, hỏi: 


- Chắc cô Hai Mắt bẻ được cho tôi một cành chứ! 


Hai Mắt đáp: 


- Thưa vâng, hẳn là được, vì cây của em. 


Cô trèo lên cây, nhẹ nhàng bẻ một cành có lá bạc quả vàng thật đẹp đưa cho hiệp sĩ. 
Hiệp sĩ liền bảo: 


- Cô Hai Mắt ơi, tôi trả công cô thế nào đây? 


Hai Mắt đáp: 


- Từ sáng tinh mơ đến tối mịt, em chịu đói khát, cơ cực, buồn lo, nếu chàng chịu mang em đi để cứu em thì em thật là sung sướng. 

Hiệp sĩ liền đỡ Hai Mắt lên ngựa, mang về lâu đài cha. Tới nơi, chàng cho cô mặc quần áo đẹp đẽ, tha hồ ăn uống. Chàng yêu cô và lấy cô làm vợ ... Lễ cưới rất vui vẻ. Khi chàng hiệp sĩ đẹp trai mang Hai Mắt đi rồi, chị và em lồng lên vì thấy cô sung sướng. Hai cô nghĩ bụng: Cây thần còn ở tay ta, dù ta không hái được quả nào, thì mọi người vẫn cứ phải ngừng lại, ngắm cây, vào tìm ta để khen cây. Biết đâu rồi ta chẳng gặp may. 

Nhưng sáng hôm sau, cây thần bỗng biến mất, hy vọng của hai chị em cũng tiêu tan. Khi Hai Mắt từ trong phòng nhỏ nhìn ra, cô mừng rỡ thấy cây đã theo cô và hiện lên. Cô Hai Mắt hưởng hạnh phúc lâu dài. Một hôm, có hai người đàn bà nghèo khó đến lâu đài cô xin ăn. Cô Hai Mắt nhận ra chị và em mình. Một Mắt và Ba Mắt bị sa sút, nghèo túng, phải đi tha phương cầu thực. Cô Hai Mắt niềm nở chào hai người, đối đãi tốt với họ, chăm sóc họ, khiến họ hối hận, vì đã từng đối xử độc ác với cô. 


Câu chuyện thật là cảm động và qua câu chuyện này các em sẽ thấy một bài học: trong cuộc đời ai có tấm lòng nhân hậu sẽ được hưởng hạnh phúc, kẻ độc ác, xấu xa sẽ gặp phải nhiều bất hạnh.